Searching...
Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

Tác dụng hỗ trợ phòng và chữa bệnh của Vitamin C

173-600-399-10-tac-dung-ky-dieu-cua-qua-chanh-doi-voi-suc-khoe-184f

Một số bệnh lý và tình trạng sức khỏe mà vitamin C hỗ trợ như:

Hen suyễn, Xơ vữa động mạch, Rối loạn miễn dịch, Ung thư, Bệnh nấm Candida, Giòn mao mạch (giảm sức bền thành mạch), Đục thủy tinh thể, Cảm cúm, Lành vết thương, Loạn sản đốt sống cổ, Bệnh Crohn, Bệnh mạch vành, Đái tháo đường, Chàm, Mệt mỏi, Bệnh túi mật, Viêm lợi răng, Tăng nhãn áp (Glaucoma), Chấn thương thể thao, Viêm gan, Herpes simplex, Herpes zoster, Tăng huyết áp, Phát ban, Vô sinh, Nhiễm trùng, Thoái hóa võng mạc, Mãn kinh, Loét da, Sa van 2 lá, Viêm xương khớp, Bệnh Parkinson, Bệnh viêm nha chu, Loét dạ dày, Bệnh động mạch ngoại biên, Bệnh xơ cứng rải rác (bệnh Charcot), Tiền sản giật, Viêm khớp dạng thấp.

Hen suyễn và các trường hợp dị ứng khác:

Hen suyễn thường phát triển nhiều ở trẻ em và người trẻ hơn 20 tuổi. Tỷ lệ bệnh ngày càng gia tăng, do nhiều nguyên nhân, như: tăng stress đối với hệ miễn dịch (do tăng các chất hóa học độc hại trong không khí, nước, thực phẩm, … ), trẻ nhũ nhi dứt sữa sớm và ăn dặm sớm bằng thức ăn rắn, dùng nhiều gia vị trong thức ăn, thêm vào đó là các kỹ thuật lai tạo di truyền các giống cây trồng hình thành nên những loại thực phẩm có nhiều khả năng gây dị ứng.
Một số nghiên cứu chứng tỏ thiếu hụt Vitamin C trong thực phẩm và trong máu là một yếu tố nguy cơ độc lập của hen suyễn. Con của những người nghiện thuốc lá có nguy cơ hen suyễn cao hơn những đứa trẻ khác, do thuốc lá làm cạn kiệt nguồn Vitamin C và E ở phổi), và triệu chứng hen tiếp tục tiếp diễn đến tuổi trưởng thành với môi trường ngày càng ô nhiễm bởi các chất oxy hóa. Sử dụng chế phẩm bổ sung Vitamin C giúp giảm nguy cơ này.
Tại phổi, về mặt sinh lý, Vitamin C đóng vai trò chất chống oxy hóa chủ chốt trên bề mặt khí đạo, thực hiện vai trò chống đỡ và ngăn chặn các tổn thương do các chất oxy hóa nội sinh lẫn ngoại sinh, đặc biệt là Oxide Nitric.
Về phương diện lâm sàng, những bệnh nhân hen suyễn có nhu cầu Viatmin C cao hơn những người khác trong cộng đồng. Từ năm 1973 đã có 11 nghiên cứu lâm sàng về vai trò của Vitamin C trên hen suyễn. 7 trong số đó chứng tỏ Vitamin C cải thiện đáng kể các thông số hô hấp và các triệu chứng suyễn.
Liều cao Vitamin C hữu ích cho các bệnh nhân hen suyễn nhờ làm giảm nồng độ Histamine, và tất nhiên hiệu quả tốt cho các tình trạng dị ứng khác. Nó được xem như là một chất kháng Histamine tự nhiên, có nhiều lợi điểm nổi bật, bao gồm cả tính an toàn, và gần đây người ta còn phát hiện ra tính ức chế miễn dịch của Histamine. Trong giai đoạn đầu của đáp ứng miễn dịch, Histamine khuếch đại đáp ứng này bằng cách làm tăng tính thấm thành mạch và tăng co cơ trơn, nhờ đó gia tăng dòng yếu tố miễn dịch vào khu vực bị viêm nhiễm. Tiếp sau đó, Histamine lại ngăn chặn sự tập trung bạch cầu vào khu vực viêm trong nỗ lực ngăn chặn đáp ứng miễn dịch.
Vitamine C kháng Histamine nhờ nhiều cơ chế. Đặc biệt nó ngăn chặn sự phóng thích Histamine từ các bạch cầu và tăng cường hiệu quả giải độc của Histamine. Một nghiên cứu gần đây khảo sát tác động kháng Histamine của Vitamin C sử dụng ngắn hạn và dài hạn và hiệu quả của nó trên chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở những người khỏe mạnh. Trong nghiên cứu dùng Vitamin C dài hạn, liều 2 g/ngày. Mẫu máu lúc đói lấy vào 2 tuần đầu và tuần thứ 6 lúc kết thúc cho thấy nồng độ Vitamin C máu tăng cao đáng kể trong khi nồng độ Histamine giảm 38 %. Khả năng hóa ứng động bạch cầu trong các phản ứng viêm tăng 19 %, giảm đến 30 % sau khi ngưng dùng Vitamin C. Tuy nhiên những thay đổi này đều có liên quan đến nồng độ Histamine. Khả năng hóa ứng động bạch cầu lớn nhất khi nồng độ Histamine nhỏ nhất. Đối với việc sử dụng Vitamin C ngắn hạn, người ta không thấy có sự thay đổi nào về nồng độ Histamine máu và khả năng hóa ứng động bạch cầu 4 giờ sau khi dùng liều Vitamin C duy nhất. Do vậy nghiên cứu này khuyến cáo những người có xu hướng dễ bị dị ứng hay nhiễm trùng nên sử dụng Vitamin C dài hạn qua các chế phẩm bổ sung Vitamin C.

Xơ vữa động mạch, Tăng cholesterol máu, và Tăng huyết áp

Hàng loạt nghiên cứu trong cộng đồng đã chứng tỏ việc sử dụng chế độ dinh dưỡng giàu Vitamin C làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong do nhồi máu cơ tim và đột quỵ (và nhiều nguyên nhân khác, bao gồm cả ung thư).
Một trong những nghiên cứu chi tiết nhất phân tích việc sử dụng Vitamin C trên 11.348 người trưởng thành trong 5 năm, được chia thành 3 nhóm: (1) Nhập ít hơn 50 mg Vitamin C mỗi ngày qua thực phẩm; (2) Nhập nhiều hơn 50 mg/ngày (không dùng thuốc); và (3) Hơn 50 mg/ngày qua thực phẩm cộng với thuốc bổ sung (tính bằng mg). Kết quả cho thấy tử suất của nhóm nhập trên 50 mg/ngày thấp hơn tử suất trung bình của người trưởng thành đến 48 % về các bệnh tim mạch và tử suất toàn bộ. Về mặt lâm sàng, điều này tương ứng với sự kéo dài tuổi thọ ở nam 5 – 7 năm và ở nữ 1 – 3 năm.
Làm cách nào Vitamin C có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch? Trước tiên nó hoạt động như một chất chống oxy hóa, kế đến nó củng cố sự vững chắc cấu trúc collagen của thành động mạch, giảm nồng độ cholesterol toàn phần máu, giảm huyết áp, tăng nồng độ HDL-cholesterol, ức chế sự kết tập tiểu cầu.
Các tổn thương oxy hóa của LDL-cholesterol đóng vai trò trung tâm trong sự hình thành xơ vữa động mạch. Vitamin C ngăn chặn sự oxy hóa LDL hết sức hữu hiệu, ngay cả đối với người hút thuốc lá. Hơn nữa, vì vitamin C phục hồi và tái tạo Vitaqmin E từ dạng bị oxy hóa trong cơ thể, nên nó tăng cường hiệu lực chống oxy hóa của Vitamin E .
Cholesterol
Nhiều nghiên cứu và quan sát lâm sàng cho thấy nồng độ Vitamin C tỷ lệ thuận với nồng độ Cholesterol toàn phần và nồng độ HDL-cholesterol máu. Một trong những nghiên cứu tiêu chuẩn nhất đã xác định nồng độ Vitamin C máu càng cao thì nồng độ LDL, Triglyceride càng thấp đồng thời nồng độ HDL càng cao. Lợi ích của HDL trên các bệnh lý tim mạch là rất to lớn. Cứ mỗi 0.5 mg Vitamin C tăng lên trong 100 mL máu tương ứng với tăng HDL 14.9 mg/100 ml ở nữ và 2.1 mg/100 ml ở nam. Cứ tăng HDL 1 % thì nguy cơ bệnh tim mạch giảm 4 %. Ngay cả những người bình thường khỏe mạnh có chế độ dinh dưỡng tốt, nồng độ Vitamin C máu bình thường việc cung cấp thêm Vitamin C qua chế phẩm bổ sung vẫn có lợi, tuy nhiêu hiệu lực này có ngưỡng giới hạn. Ngưỡng giới hạn này vào khoảng thấp hơn 215 mg/ngày cho nữ và 345 mg/ngày cho nam.

Huyết áp.

Các nghiên cứu lâm sàng và cộng đồng chứng tỏ nồng độ Vitamin C máu tỷ lệ nghịch với huyết áp; nghĩa là càng nhập nhiều Vitamin C thì huyết áp càng giảm. Hàng loạt nghiên cứu sơ bộ cho thấy hiệu quả giảm huyết áp nhẹ của Vitamin C (ví dụ giảm 5 mm Hg) trên các bệnh nhân tăng huyết áp trung bình.
Một trong những cách mà Vitamin C giúp duy trì huyết áp trong giới hạn bình thường là thúc đẩy bài tiết Chì. Sự phơi nhiễm Chì mạn tính do ô nhiễm môi trường, bao gồm cả nước uống, có liên quan đến tăng huyết áp và tăng tử suất các bệnh tim mạch. Những vùng dân sử dụng nước mưa có nồng độ Chì cao trong nước uống, và dân cư vùng này có nguy cơ cao huyết áp. Hơn nữa, nước mưa còn có nồng độ calcium và magnesium thấp – hai chất khoáng này hết sức quan trọng trong việc bảo vệ chống tăng huyết áp.

Cầu nối mạch vành

Trong bệnh viện thường ít sử dụng Vitamin C bổ sung, mặc dù khả năng thiếu hụt Vitamin C rất cao ở các bệnh nhân nhập viện. Để minh họa cho nhu cầu bổ sung Vitamin C trong bệnh viện, một nghiên cứu phân tích tình trạng Vitamin C trên các bệnh nhân phẫu thuật nối tắt mạch vành. Nồng độ Vitamin C huyết tương tụt xuống 70 % 24 giờ sau phẫu thuật và còn duy trì ở mức thấp này 2 tuần hậu phẫu. Ngược lại, nồng độ Vitamin E và Carotenoid không thay đổi đáng kể, có lẽ do chúng là các Vitamin tan trong mỡ nên được cơ thể tích trữ lâu dài. Sự cạn kiệt nguồn dự trữ Vitamin C làm suy yếu khả năng chống đỡ bệnh tật do các gốc tự do, nhiễm trùng, hàn gắn vết thương trên các bệnh nhân này. Do đó, Vitamin C bổ sung là hết sức cần thiết cho các bệnh nhân trong giai đoạn hồi phục sau mổ nói chung và hậu phẫu cầu nối mạch vành nói riêng.

Ngăn ngừa ung thư

Vitamin C đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng trong bảo vệ cơ thể chống ung thư, bao gồm hoạt động chống oxy hóa và bảo vệ cấu trúc tế bào (gồm DNA) tránh các tổn thương. Vitamin C cũng giúp cơ thể đương đầu với ô nhiễm môi trường, tăng cường chức năng miễn dịch, ức chế sự hình thành các hợp chất sinh ung trong cơ thể.
Các bằng chứng dịch tễ học về vai trò bảo vệ cơ thể chống ung thư của vitamin C là không thể chối cãi. Aên nhiều vitamin C thực sự làm giảm nguy cơ của tất cả các dạng ung thư, gồm ung thư phổi, đại tràng, ung thư vú, cổ tử cung, thực quản, khoang miệng, và ung thư tụy. Điểm mấu chốt từ tất cả các nghiên cứu này là khẳng định một lần nữa mọi người cần phải sử dụng nguồn thực phẩm giàu vitamin C hay các chế phẩm bổ sung vitamin C. Hàu hết các nghiên cứu này tập trung vào khả năng ngăn ngừa ung thư của vitamin C, carotene hay những dưỡng chất tương tự trong thực phẩm mà ít chú ý đến các chế phẩm bổ sung.

Ung thư phổi

Trong 11 khảo sát về vai trò chống ung thư phổi của Vitamin C, 9 khảo sát cho thấy giảm nguy cơ ung thư với liều cao. Năm trong số này kết quả khá rõ ràng, và bốn trong đó chứng minh rằng Vitamin C hữu hiệu hơn cả beta-carotene. Gladys Block, một tác giả đi tiên phong trong phong trào sử dụng chất chống oxy hóa ngăn ngừa ung thư tại Mỹ, đã viết rằng: ”Những nghiên cứu gần đây cho thấy Vitamin C là một yếu tố bảo vệ chống ung thư phổi độc lập và hữu hiệu còn hơn cả beta-carotene như đã từng đề cập trước đây”.
Ung thư miệng, thực quản và dạ dày
7 trên 8 nghiên cứu về ung thư vòm miệng cho thấy ăn ít vitamin C là yếu tố nguy cơ cao. Những người ăn ít nhất vitamin C hàng ngày có nguy cơ ung thư vòm miệng cao gấp 2 lần so với người ăn nhiều nhất. Kết quả cũng tương tự trên ung thư thực quản. Trong khi đó 16/16 nghiên cứu cho thấy việc sử dụng nhiều vitamin C hàng ngày có hiệu quả đáng kể trong bảo vệ chống ung thư dạ dày. Ung thư dạ dày có liên quan mật thiết với một số hợp chất sinh ung được biết như nitrosamine. Nitrosamine sinh ra nhiều khi ăn các dạng thịt hun khói. Vitamin C ức chế đáng kể sự hình thành nitrosamine.

Ung thư vú

Một phân tích hồi cứu về vai trò của các yếu tố dinh dưỡng trên ung thư vú kết luận rằng “Vitamin C là một yếu tố bảo vệ hữu hiệu nhất giúp cơ thể chống lại các yếu tố nguy cơ ung thư vú”. Nồng độ vitamin C còn quan trọng hơn cả acid béo bão hòa, beta-carotene và vitamin E.

Ung thư cổ tử cung

Nguy cơ bị ung thư CTC tăng lên đột ngột khi lượng Vitamin C nhập vào giảm sút. Phụ nữ ăn vào ít hơn 88 mg Vitamin C mỗi ngày có nguy cơ ung thư CTC cao gấp 4 lần so với những người ăn vào nhiều hơn. Những trường hợp loạn sản CTC (một dạng tiền ung thư) và ung thư biểu mô tại chỗ có lượng nhập và nồng độ Vitamin C máu thấp hơn những phụ nữ CTC bình thường. Như vậy sự nhập Vitamin C không đầy đủ là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với loạn sản CTC và ung thư biểu mô tại chỗ CTC.

Ung thư tụy

6 trong 7 nghiên cứu chứng tỏ nhập nhiều Vitamin C giúp giảm nguy cơ mắc ung thư tụy tạng. Nguy cơ ung thư này tăng gấp 2,6 lần ở những người nhập ít hơn 70 mg Vitamin C mỗi ngày so với những người nhập nhiều hơn 159 mg/ngày.

Ung thư đại tràng

Vai trò bảo vệ của Vitamin C trong ung thư đại tràng được chứng minh qua 6/8 nghiên cứu, hầu hết làm giảm nguy cơ 2 lần. Theo Viện Ung Thư học Quốc gia Hoa Kỳ, Vitamin C còn làm giảm sự hình thành các hợp chất sinh ung do vi khuẩn ở đại tràng tạo ra.

Điều trị ung thư

Xu hướng chung của điều trị ung thư rất khó chấp nhận việc sử dụng vitamin C và các chế phẩm bổ sung dinh dưỡng tương tự. Tuy nhiên, vấn đề trước hết là chúng ta hãy mở rộng thế giới quan đầu óc và thay đổi quan điểm, để dần dần làm mất đi những phản ứng cho rằng chế phẩm dinh dưỡng là không khoa học.
Năm 1976, Bác sĩ Linus Pauling, một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 với 2 lần đoạt giải Nobel, đã đưa Vitamin C lên vũ đài khoa học khi báo cáo kết quả nghiên cứu của ông cùng với Bác sĩ Ewan Cameron. Pauling và Cameron đã cho những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối sử dụng Vitamin C 10 g/ngày. 16 trong số 100 bệnh nhân này đã sống sót sau hơn 1 năm.
Tiếp sau đó, Cameron đã thực hiện một nghiên cứu tương tự trên một mẫu lớn hơn, 1826 bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. 294 bệnh nhân được dùng Vitamin C liều cao (10 g/ngày). 1532 bệnh nhân còn lại xem như nhóm chứng. Kết quả phân tích cho thấy những bệnh nhân được sử dụng acid ascorbic có thời gian sống thêm gấp đôi so với nhóm chứng (343 ngày so với 180 ngày).
Nhiều nhà phê bình vẫn chưa công nhận những kết quả của Pauling và Cameron. Theo họ, các nghiên cứu này không phải là nghiên cứu mù đôi, nên kết quả không đảm bảo. Một số nghiên cứu kiểm chứng đã bác bỏ kết luận của hai ông. Dù sao đi nữa, việc sử dụng Vitamin C trong ung thư là có lợi, trước hết vì nó bù đắp vào nồng độ bị thiếu hụt trên những bệnh nhân này, đồng thời nó còn làm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể.

Đục thủy tinh thể

Những cá thể có chế độ dinh dưỡng giàu Vitamin C và E, selenium, carotene có nguy cơ hình thành đục thủy tinh thể và thoái hóa võng mạc giảm đi rất nhiều so với những người nhập ít hơn. Bên cạnh đó, các chất chống oxy hóa này làm chậm tiến trình đục thủy tinh thể và cải thiện thị lực. Nồng độ Vitamin C trong máu bình thường vào khoảng 0,5 mg/100 ml máu, ngược lại trong các tuyến thượng thận, tuyến yên, nồng độ Vitamin C cao gấp 100 lần, còn trong gan, lách, thủy tinh thể: gấp 20 lần. Cơ thể phải sử dụng khá nhiều năng lượng để bơm Vitamin C ngược gradient nồng độ từ máu vào các cơ quan này. Do đó chúng ta cần phải cung cấp nhiều Vitamin C mỗi ngày nhằm nâng cao nồng độ trong máu, giảm bớt sự chênh lệch nồng độ giữa máu và các mô hoạt động.

Cảm lạnh thông thường

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để khảo sát vai trò của Vitamin C trên cảm cúm, đặc biệt là khả năng tăng cường hệ miễn dịch. Đã 20 năm trôi qua kể từ khi Linus Pauling viết Vitamin C và Cảm cúm (dựa trên quan điểm của ông và hàng loạt nghiên cứu chứng tỏ Vitamin C có thể làm giảm các triệu chứng nặng lẫn thời gian nhiễm bệnh), người ta vẫn còn tranh luận về hiệu quả lâm sàng của nó.
Hiện người ta khuyến cáo sử dụng Vitamin C cho các trường hợp nhiễm trùng cấp tính, đặc biệt là ở người lớn tuổi. Mặc dù chỉ với liều thấp, Vitamin C cũng có thể làm cải thiện đáng kể các triệu chứng lâm sàng. Nên sử dụng Vitamin C trên tất cả các bệnh nhân lớn tuổi nhiễm khuẩn hô hấp cấp.

Đái tháo đường

Vì insulin hỗ trợ sự vận chuyển Vitamin C vào tế bào, nên hầu hết các bệnh nhân bệnh đái tháo đường bị thiếu Vitamin C nội bào nếu không được cung cấp Vitamin C liều cao cho dù có được sử dụng chế độ ăn đầy đủ Vitamin C như người bình thường. Bệnh nhân đái tháo đường đơn giản cần nhiều Vitamin C hơn, và Vitamin C liều cao là hoàn toàn cần thiết trong điều trị bệnh đái tháo đường. Liều dùng thông thường trong trường hợp này là 1.000 – 3.000 mg/ngày chia 2 - 3 lần.
Thiếu hụt Vitamin C nội bào âm ỉ, mạn tính dẫn đến hàng loạt vấn đề trong đái tháo đường, như tăng tính thấm thành mạch, giảm sự lành vết thương, tăng cholesterol máu, suy giảm hệ thống miễn dịch. Hơn nữa, đái tháo đường làm tăng sự hình thành gốc tự do. Vitamin C giúp cơ thể kiểm soát đường, hoạt động của gốc tự do, giảm sự tích tụ sorbitol nội bào, và ức chế sự gắn kết của glucose với protein (sự glycosyl hóa). Sự tích tụ sorbitol và sự glycosyl hóa có liên quan rất nhiều đến các biến chứng của đái tháo đường, nhất là các biến chứng về mắt và thần kinh.

Sorbitol và các biến chứng đái tháo đường

Sorbitol là một sản phẩm phụ được hình thành trong quá trình chuyển hóa glucose dưới sự hỗ trợ của men aldose reductase. Ở những người không bị đái tháo đường, một khi sorbitol sinh ra sẽ được tiếp tục chuyển hóa thành fructose nhờ men polyol-dehydrogenase. Sự chuyển hóa thành fructose này giúp sorbitol được tống xuất ra khỏi tế bào khi nồng độ tăng cao. Nhưng không may là những bệnh nhân đái tháo đường nồng độ đường huyết tăng cao nên sorbitol tích tụ ngày càng nhiều trong tế bào và đóng vai trò chủ yếu lên sự phát triển các biến chứng. Chúng ta có thể hiểu vai trò đó thông qua việc xem xét sự liên quan giữa sorbitol và sự hình thành đục thủy tinh thể. Thủy tinh thể mặc dù không có mạch máu nuôi nhưng lại là một mô chuyển hóa tích cực và biến đổi không ngừng suốt cuộc đời. Tăng đường huyết gây tăng tích tụ sorbitol từ glucose. Vì sorbitol hầu như không thấm qua màng thủy tinh thể và thiếu men polyol-dehydrogenase nên sorbitol tích tụ với nồng độ ngày càng cao, và nồng độ này không thuyên giảm ngay cả khi glucose máu về bình thường. Kết quả là nước bị kéo vào trong tế bào trong thủy tinh thể để duy trì sự cân bằng áp suất thẩm thấu. Khi nước bị kéo vào trong, tế bào phải phóng thích nhiều phân tử nhỏ như amino acid, inositol, glutathione, Niacin, Vitamin C, Mg và K để cân bằng áp suất thẩm thấu. Đây là những phân tử bảo vệ thể thủy tinh tránh các tổn thương, thiếu chúng thể thủy tinh trở nên nhạy cảm hơn, các sợi protein mỏng manh bị mất độ trong suốt và đục thủy tinh thể hình thành.
Các thuốc chuyên dùng ức chế tích tụ sorbitol thường có nhiều độc tính. Ngược lại, Vitamin C hết sức an toàn và hữu hiệu trong việc giảm nồng độ sorbitol. Có thể sử dụng Vitamin C liều thấp 100 mg hàng ngày, nhưng thường người ta dùng 1.000 mg/ngày có thể bình thường hóa nồng độ sorbitol trong tế bào hồng cầu, trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi 30 ngày.

Ức chế sự Glycosyl hóa

Sự glycosyl hóa là sự gắn kết glucose với protein, dẫn đến những thay đổi về cấu trúc và chức năng của nhiều protein trong cơ thể. Ở bệnh nhân đái tháo đường có sự glycosyl hóa quá mức của albumin và các protein của hồng cầu, của thể thủy tinh và của bao myelin (bao sợi thần kinh). Sự glycosyl hóa này làm biến đổi cấu trúc và chức năng của các tế bào và mô liên quan và góp phần rất lớn vào sự hình thành các biến chứng của đái tháo đường. Ví dụ, các phân tử LDL bị glycosyl hóa (có nồng độ cao trên bệnh nhân đái tháo đường) sẽ không được gắn kết với LDL receptor hoặc ngăn chặn sự tổng hợp cholesterol ở gan. Kết quả bệnh nhân đái tháo đường điển hình bị tăng cholesterol máu và tăng nguy cơ xơ vữa động mạch đáng kể.
May thay, Vitamin C liều cao (1 - 3 g/ngày) làm giảm đáng kể sự glycosyl hóa protein (có thể giảm 33 % albumin bị glycosyl hóa).

Giảm số lượng tinh trùng

Vitamin C (acid ascorbic) đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ chất liệu di truyền của tinh trùng (DNA) tránh các tổn thương. Nồng độ
Theo Wikipedia

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Back to top!